Tin tức

SƠ LƯỢc VỀ NhÃn HiỆu Ba ChiỀu VÀ NhÃn HiỆu MÀu

SƠ LƯỢC VỀ NHÃN HIỆU BA CHIỀU VÀ NHÃN HIỆU MÀU

  1. Nhãn hiệu ba chiều (three-dimensional mark)

Nhãn hiệu ba chiều hay còn gọi là nhãn hiệu lập thể, là hình dạng thể hiện trong không gian ba chiều: dài, rộng và cao. Hình dạng đó có thể giúp người tiêu dùng nhận biết nguồn gốc thương mại của sản phẩm hoặc dịch vụ.

1.1.  Dấu hiệu được sử dụng, đăng ký làm nhãn hiệu

Cho đến hiện nay đã có nhiều nước chấp nhận bảo hộ nhãn hiệu ba chiều nhưng có sự khác nhau trong quy định về đối tượng bảo hộ. Từ thực tế bảo hộ ở các nước, WIPO đã tổng hợp và nhóm các dấu hiệu được sử dụng và bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu ba chiều gồm:

– Bao bì, bao gói sản phẩm (Product packaging);

– Hình dáng của sản phẩm hoặc một bộ phận của sản phẩm (Product shape);

– Dấu hiệu ba chiều khác có liên quan đến sản phẩm, dịch vụ (Others);

– Trang trí thương mại (Trade dress/Get-up).

Trong khi 02 dạng nhãn hiệu đầu được sử dụng riêng cho hàng hóa thì 02 dạng nhãn hiệu sau có thể sử dụng cho cả hàng hóa và dịch vụ. Các ngành dịch vụ có thể đăng ký nhãn hiệu ba chiều bằng hình ảnh của tòa nhà trụ sở doanh nghiệp, bộ đồng phục đặc trưng của doanh nghiệp… Ví dụ:

Bộ đồng phục tiếp viên hàng không của công ty Korean Airlines đã được bảo hộ đối với nhóm 39 – dịch vụ vận chuyển hành khách.

Nhãn hiệu được bảo hộ của The National Bank of Indianapolis, Hoa Kỳ cho nhóm 36: Dịch vụ ngân hàng

Nhãn hiệu ba chiều được tạo thành từ những dấu hiệu có thể nhận biết được bằng thị giác, do đó hoàn toàn có thể được thể hiện đồ họa bằng hình vẽ, hình ảnh.

1.2.  Tiêu chuẩn bảo hộ

Mặc dù hiện nay việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu ba chiều tương đối phổ biến, tuy nhiên trong đăng ký nhãn hiệu ba chiều còn tồn tại khá nhiều vấn đề lý luận.

Thứ nhất, người tiêu dùng thường không cho rằng các dấu hiệu ba chiều là dấu hiệu để phân biệt nguồn gốc thương mại của sản phẩm hoặc dịch vụ, bởi vậy nhãn hiệu ba chiều đạt được đến mức độ nào thì có thể đóng vai trò của một dấu hiệu phân biệt nguồn gốc thương mại của sản phẩm hoặc dịch vụ là vấn đề được quan tâm đầu tiên trong việc bảo hộ nhãn hiệu ba chiều. Một số quốc gia cho rằng các dấu hiệu ba chiều chỉ khi có các yếu tố đặc biệt thì mới được coi là có khả năng phân biệt. Một số nước khác lại yêu cầu chứng minh dấu hiệu ba chiều có ý nghĩa thứ hai (secondary meaning).

Thứ hai, các dấu hiệu ba chiều thường bị từ chối bảo hộ với lý do mang chức năng hữu dụng. Xem xét từ góc độ chính sách, nếu như một dấu hiệu ba chiều phù hợp với việc bảo hộ dưới dạng một quyền sở hữu trí tuệ khác (như là sáng chế, kiểu dáng công nghiệp) thì không nên cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu vì thời hiệu bảo hộ sẽ là vô thời hạn. WIPO cho rằng các dấu hiệu ba chiều mang tính mục đích hoặc cách sử dụng của sản phẩm hoặc có thể ảnh hưởng đến giá thành hay chất lượng sản phẩm thì không được phép đăng ký làm nhãn hiệu vì bị coi là có tính chức năng.

Như vậy, một dấu hiệu ba chiều muốn đăng ký nhãn hiệu phải đáp ứng tiêu chuẩn về tính phân biệt và tính phi chức năng.

  1. Nhãn hiệu màu (colour mark)

Trong các hoạt động thương mại hiện đại, ngày càng nhiều doanh nghiệp sử dụng màu sắc để làm công cụ nhận biết sản phẩm hoặc dịch vụ, có thể là dùng ngay trên sản phẩm, hoặc bao bì đóng gói sản phẩm hay trong các tài liệu quảng cáo. Số lượng đơn đăng ký nhãn hiệu màu bởi vậy ngày càng tăng ở các nước. Màu sắc cũng dần được người tiêu dùng chấp nhận như một dấu hiệu để phân biệt nguồn gốc thương mại của sản phẩm. Đối với người tiêu dùng, nhận biết bằng màu sắc còn dễ hơn so với các dấu hiệu nhận biết khác và cũng dễ để nắm bắt thông tin sản phẩm. Nếu không có sự bảo hộ hợp lý đối với các loại nhãn hiệu màu có thể các đối thủ cạnh tranh sẽ có những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, ảnh hưởng tới các doanh nghiệp kinh doanh trung thực, đã tạo dựng được hình ảnh thương mại uy tín thông qua việc sử dụng lâu dài các màu sắc tạo nên được khả năng phân biệt từ màu sắc đó.

Hoạt động thương mại quốc tế ngày càng phát triển, các màu sắc cũng đóng vai trò ngày càng quan trọng, lý do là vì các dấu hiệu màu sắc so với các dấu hiệu truyền thống được sử dụng làm nhãn hiệu có lợi thế hơn bởi không gặp trở ngại về khác biệt ngôn ngữ. Vì quy định pháp luật nhãn hiệu của các nước khác nhau nên việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu màu cũng khác nhau.

2.1. Dấu hiệu được sử dụng, đăng ký làm nhãn hiệu màu

Theo tổng hợp từ WIPO, nhãn hiệu màu gồm có những dạng sau:

– Nhãn hiệu màu đơn sắc;

– Nhãn hiệu có sự kết hợp của nhiều màu sắc khác nhau;

– Nhãn hiệu có sự kết hợp màu sắc với các dấu hiệu khác.

Đối với 02 dạng đầu tiên, nhãn hiệu màu chỉ thuần túy do màu sắc cấu tạo nên mà không sử dụng thêm các dấu hiệu chữ cái, hình vẽ nào khác cũng như không bị hạn chế về hình dạng. Theo cách gọi trong Tài liệu hướng dẫn thẩm định nhãn hiệu của Cơ quan hài hòa thị trường chung châu Âu (tiền thân của Văn phòng Sở hữu trí tuệ châu Âu EUIPO), nhãn hiệu dạng này còn được gọi là “nhãn hiệu màu trừu tượng” (abstract color mark). Hiện nay trong số các nước có quy định bảo hộ cho nhãn hiệu màu thì hầu hết các nước đều bảo hộ nhãn hiệu màu là sự kết hợp của nhiều màu sắc. Còn nhãn hiệu đơn sắc thì số lượng quốc gia bảo hộ còn hạn chế, gồm Đức, Pháp, Anh, Australia, New Zealand, Singapore, Hồng Kông… Một số nước quy định rõ không bảo hộ nhãn hiệu đơn sắc như Ấn Độ, Trung Quốc…

2.2. Tiêu chuẩn bảo hộ nhãn hiệu màu

WIPO chỉ ra rằng màu đơn sắc hoặc tổ hợp màu sắc chỉ khi có được khả năng phân biệt thì mới được đăng ký bảo hộ làm nhãn hiệu. Tuy nhiên, nhãn hiệu màu không bao giờ có tính phân biệt tự thân mà tính phân biệt đạt được sau cả một quá trình lưu hành sản phẩm, dịch vụ.

Bên cạnh đó, còn có một số luận điểm phản đối việc bảo hộ nhãn hiệu đơn sắc được đưa ra như: thuyết cạn màu, tính tương tự của màu sắc và tính công dụng của màu sắc. Thuyết cạn màu cho rằng mặc dù kỹ thuật hiện đại có thể tạo ra hơn 200 nghìn màu khác nhau, nhưng theo nghiên cứu mắt thường có thể phân biệt tối đa khoảng 750 màu. Cùng một màu nhưng có nhiều gam màu khác nhau nên dễ dẫn đến hiện tượng tương tự, lẫn lộn về màu sắc. Người tiêu dùng rất khó căn cứ vào màu sắc để phán đoán nguồn gốc thương mại của sản phẩm. Nếu cho phép một số doanh nghiệp độc quyền sử dụng và lũng đoạn thì sẽ dẫn tới việc cạn kiệt số lượng màu có thể sử dụng được ảnh hưởng đến các hoạt động kinh doanh lành mạnh. Như vậy, việc thẩm định nhãn hiệu màu sắc phải thật sự cẩn trọng và khắt khe để tránh hiện tượng lũng đoạn thị trường.

Ngoài ra, màu sắc có thể có vai trò trong chức năng, tính chất hoặc cách sử dụng của một số loại sản phẩm nào đó, hoặc một màu sắc nào đó đã đóng vai trò chức năng truyền tải một thông tin đặc định nào đó. Trong trường hợp này màu sắc đó được xem là đã mang tính chức năng đối với sản phẩm, dịch vụ nên không thể được bảo hộ độc quyền nhãn hiệu. Quy chế thẩm định nhãn hiệu của Hoa Kỳ (TMEP) quy định nếu màu sắc mang lại lợi thế trong tính năng hoặc sử dụng thì được coi là có tính chức năng. Ví dụ: màu vàng biểu thị sự an toàn, do vậy những sản phẩm hoặc dịch vụ mang tính chất bảo vệ sẽ không thể đăng ký màu vàng làm nhãn hiệu được. Một trường hợp nữa mà màu sắc cũng được coi là có tính chức năng khi mà nó đem lại tính kinh tế trong sản xuất và sử dụng. Ví dụ như trường hợp màu sắc được tạo ra là kết quả phụ của quá trình sản xuất, nếu chấp nhận bảo hộ nhãn hiệu thì sẽ đặt những đối thủ cạnh tranh vào vị trí bất lợi khi mà buộc họ phải thay đổi quy trình sản xuất.

Facebook messengerFacebook messenger
Call Now Button