Trong nền kinh tế hàng hóa, tiền là vật tương đương, là công cụ thanh toán hữu hiệu trong các quan hệ nghĩa vụ, hợp đồng và các quan hệ tài sản khác. Thi hành án dân sự về bản chất là thi hành nghĩa vụ về tài sản. Phương châm của hoạt động Thi hành án dân sự là khuyến khích các chủ thể nghĩa vụ, người phải thi hành án tự nguyện thi hành. Tuy nhiên, khi chủ thể phải Thi hành án không tự nguyện thi hành thì cơ quan thi hành án phái áp dụng các biện pháp cưỡng chế.
Nghĩa vụ trả tiền hay còn gọi là nghĩa vụ thanh toán là loại nghĩa vụ phổ biến trong các quan hệ dân sự, nó phát sinh từ quan hệ hợp đồng, quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và việc thực hiện các nghĩa vụ của công dân đối với Nhà nước. Chính vì vậy, biện pháp cưỡng chế thi hành án để thi hành nghĩa vụ trả tiền chiếm số lượng lớn trong các biện pháp cưỡng chế thi hành án, bởi những tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ trả tiền phát sinh rất phổ biến trong sinh hoạt thường ngày cũng như hoạt động kinh doanh. Ngoài ra, trong các bản án, quyết định đều có quy định nghĩa vụ nộp án phí của người thua kiện hoặc bị cáo nên nghĩa vụ trả tiền xuất hiện ở hầu hết trong các quyết định thi hành án. Trong thực tiễn hoạt động thi hành án dân sự, loại nghĩa vụ này chiếm tới "80% số lượng vụ việc cơ quan thi hành án dân sự phải thi hành". Có thể nói, nghĩa vụ trả tiền phát sinh ở hầu hết các bản án, quyết định thuộc thẩm quyền của cơ quan thi hành án dân sự. Vì vậy, tỷ lệ số vụ việc áp dụng biện pháp cưỡng chế trả tiền cũng chiếm tỷ lệ chủ yếu trong tổng số vụ việc áp dụng biện pháp cưỡng chế. Việc Luật thi hành án dân sự quy định các biện pháp cưỡng chế là thi hành nghĩa vụ trả tiền nhằm bao quát sự đa dạng về mặt vật chất (tài sản vô hình, tài sản hữu hình..) sự rộng rãi về mặt không gian hiện hữu (có tại ngân hàng, người thứ ba, nơi chi trả thu nhập...) và cả tài sản hình thành trong tương lai. Mục đích cuối cùng là chuyển tiền thuộc sở hữu của người phải thi hành án sang cho người được thi hành án.
- Nguyên tắc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền
Do biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền có những đặc điểm đặc thù nên khi áp dụng, chấp hành viên ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc chung, còn phải tuân thủ các nguyên tắc riêng có của biện pháp cưỡng chế này.
Nguyên tắc thứ nhất, cưỡng chế thi hành án phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án và các chi phí cần thiết. Đây là nguyên tắc cơ bản và xuyên suốt quá trình phát triển của các biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền. Nguyên tắc này được quy định tại Điều 13 Văn bản hợp nhất 1357/VBHN-BTP ngày 14/4/2020, được kế thừa từ Điều 8 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 09/9/2009 của Chính phủ: "Khi kê biên tài sản, chấp hành viên phải tính các giá trị tài sản kê biên để kê biên tương ứng với nghĩa vụ Thi hành án và thanh toán các chi phí Thi hành án".
Nguyên tắc này được đặt ra khi giá trị tài sản người phải thi hành án lớn hơn toàn bộ nghĩa vụ trả tiền theo các Quyết định thi hành án tại thời điểm áp dụng cưỡng chế và các chi phí cưỡng chế theo luật định. Vì vậy, trước khi thực hiện việc cưỡng chế chấp hành viên phải thực hiện việc so sánh số tiền dự kiến thu được từ việc xử lý tài sản của người phải thi hành án (đã trừ chi phí cần thiết) với số tiền phải thi hành. Việc vi phạm nguyên tắc này sẽ dẫn đến xâm phạm lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân được pháp luật bảo vệ.
Tuy nhiên, nguyên tắc này cũng có ngoại lệ: Trường hợp người phải thi hành án có một tài sản duy nhất, nếu kê biên một phần tài sản sẽ làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì chấp hành viên sẽ tiến hành kê biên toàn bộ (Khoản 1 Điều 13 Văn bản hợp nhất 1357/VBHN-BTP ngày 14/4/2020). Ví dụ: Ông A là người phải thi hành án có nghĩa vụ trả số tiền là 500 triệu đồng. Ông A có duy nhất diện tích đất là 40m2 có mặt tiền rộng 3m và có trị giá là 1,5 tỷ đồng. Trong trường hợp này, chấp hành viên phải kê biên toàn bộ diện tích thửa đất, vì không thể chia nhỏ thửa đất để chỉ kê biên phần diện tích đất có giá trị khoảng 500 triệu đồng.
Nguyên tắc thứ hai, khi cưỡng chế tài sản sản thuộc sở hữu chung phải tuân thủ quy định tại Điều 74 Luật thi hành án dân sự. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đồng sở hữu với người phải thi hành án có tài sản bị kê biên. Chấp hành viên phải tiến hành thông báo cho các chủ sở hữu chung được biết về việc sẽ cưỡng chế đối với khối tài sản chung và để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng. Những đồng sở hữu này có quyền thỏa thuận hoặc yêu cầu tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải Thi hành án trong khối tài sản chung trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo. Nếu họ không yêu cầu tòa án giải quyết thì chấp hành viên yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản phần quyền sử dụng đất của người phải Thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng.
Riêng đối với tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng, thì Chấp hành viên xác định theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và thông báo cho bên còn lại biết. Nếu một bên không đồng ý, thì trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày Chấp hành viên xác định phần sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung, vợ hoặc chồng có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung. Một điểm cần lưu ý ở quy định này là Luật thi hành án dân sự không xác định rõ việc yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung được tính từ thời điểm có đơn yêu cầu gửi tới Tòa án hay là thời điểm Tòa án chính thức thụ lý đơn yêu cầu. Đối với tài sản chung đã xác định được phần sở hữu, Chấp hành viên phải tiến hành cưỡng chế đối với phần tài sản thuộc sở hữu của người phải thi hành án. Tuy nhiên, nếu đã xác định được phần tài sản mà việc áp dụng cưỡng chế để phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên tiến hành cưỡng chế toàn bộ khối tài sản chung và Thanh toán lại cho các sở hữu chung giá trị phần sở hữu của họ. Một điểm đặc biệt quan trọng là các đồng sở hữu tài sản chung được quyền ưu tiên mua tài sản.
Nguyên tắc thứ ba, nội dung của nguyên tắc này là việc cưỡng chế vẫn được tiến hành đối với tài sản có tranh chấp và Chấp hành viên yêu cầu những người liên quan khởi kiện tại Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền. Chấp hành viên sẽ xử lý tài sản đã cưỡng chế theo quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền. Nếu hết thời hạn 30 ngày kể từ Chấp hành viên ngày yêu cầu, mà những người liên quan không khởi kiện hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thì Chấp hành viên căn cứ Luật thi hành án dân sự để xử lý tài sản đã cưỡng chế.
- Những biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền được áp dụng phổ biến
- Biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải Thi hành án
Biện pháp này được Luật thi hành án dân sự quy định như sau: "Chấp hành viên ra quyết định khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải Thi hành án. Số tiền khấu trừ không được vượt quá nghĩa vụ Thi hành án và chi phí cưỡng chế". Để đảm bảo cho việc thực hiện biện pháp cưỡng chế, Luật thi hành án dân sự đã quy định rõ trách nhiệm của Kho bạc nhà nước, ngân hàng và tổ chức tín dụng khác phải phối hợp với chấp hành viên.
Việc ưu tiên áp dụng biện pháp này xuất phát từ việc thủ tục áp dụng biện pháp này khá đơn giản, mất ít thời gian và thường mang lại kết quả ngay sau khi ban hành Quyết định khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải thi hành án. Trong thực tế, nếu người phải thi hành án là doanh nghiệp hoặc tổ chức thì đây là biện pháp được ưu tiên áp dụng đầu tiên.
Điểm khó khăn cho việc áp dụng biện pháp này trên địa bàn thành phố lớn (như Hà Nội) là trên địa bàn có quá nhiều ngân hàng. Hà Nội là địa bàn đóng trụ sở và chi nhánh của tất cả các ngân hàng thương mại của Việt Nam và một số lượng lớn các chi nhánh của Ngân hàng nước ngoài hoạt động. Do vậy, với một mạng lưới dầy đặc các chi nhánh và phòng giao dịch đã làm cho hoạt động xác minh tài khoản và số dư khả dụng trong tài khoản của người phải thi hành án của Chấp hành viên gặp rất nhiều khó khăn. Vì để có thể áp dụng thành công một lần bằng biện pháp này, Chấp hành viên phải tiến hành xác minh số dư khả dụng trong tài khoản của người phải thi hành án ở rất nhiều ngân hàng
- Biện pháp kê biên, phát mại tài sản
Trong hoạt động thi hành án dân sự, thuật ngữ kê biên tài sản có thể được hiểu là một biện pháp cưỡng chế do chấp hành viên thực hiện nhằm tính toán và ghi chép lại tài sản theo một trật tự nhất định nhằm mục đích thi hành nghĩa vụ theo quyết định thi hành án. Kê biên tài sản thi hành án cũng được hiểu là việc hạn chế quyền định đoạt về tài sản của người phải thi hành án nhằm bảo đảm thi hành án.
Trong thực tế, biện pháp kê biên tài sản là biện pháp cưỡng chế có hiệu quả nhất và đem lại giá trị thi hành cao nhất trong tất cả biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền.
Nguyên tắc cơ bản khi kê biên tài sản là: Mọi tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của người phải thi hành án đều có thể bị kê biên để thi hành án (trừ tài sản không được kê biên theo quy định của pháp luật), bao gồm tài sản thuộc sở hữu chung, sở hữu riêng, tài sản do người thứ ba quản lý, sử dụng.
Theo nguyên tắc này, phạm vi tài sản của người phải thi hành án có thể kê biên là rất rộng bao gồm tất cả các dạng tài sản từ tài sản hữu hình đến tài sản vô hình và trongnhiều hình thức sở hữu. Các tài sản không được kê biên theo quy định tại Luật thi hành án dân sự có thể chia ra làm ba nhóm chính như sau:
Nhóm 1: Tài sản bị cấm lưu thông theo quy định của pháp luật; tài sản phục vụ quốc phòng, an ninh, lợi ích công cộng ;tài sản do ngân sách nhà nước cấp cho cơ quan, tổ chức.
Nhóm 2: Tài sản không được kê biên khi người phải thi hành án là cá nhân:
a) Số lương thực đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người phải thi hành án và gia đình trong thời gian chưa có thu nhập, thu hoạch mới;
b) Số thuốc cần dùng để phòng, chữa bệnh của người phải thi hành án và gia đình;
c) Vật dụng cần thiết của người tàn tật, vật dụng dùng để chăm sóc người ốm;
d) Đồ dùng thờ cúng thông thường theo tập quán ở địa phương;
đ) Công cụ lao động cần thiết, có giá trị không lớn được dùng làm phương tiện sinh sống chủ yếu hoặc duy nhất của người phải thi hành án và gia đình;
e) Đồ dùng sinh hoạt cần thiết cho người phải thi hành án và gia đình.
Nhóm 3: Tài sản không được kê biên khi người phải thi hành án là doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ:
a) Số thuốc phục vụ việc phòng, chữa bệnh cho người lao động; lương thực, thực phẩm, dụng cụ và tài sản khác phục vụ bữa ăn cho người lao động;
b) Nhà trẻ, trường học, cơ sở y tế và thiết bị, phương tiện, tài sản khác thuộc các cơ sở này, nếu không phải là tài sản để kinh doanh;
c) Trang thiết bị, phương tiện, công cụ bảo đảm an toàn lao động, phòng, chống cháy nổ, phòng, chống ô nhiễm môi trường.
Ngoài những tài sản nêu trên, thì trong một số trường hợp vẫn có những tài không được phép kê biên như: Quyền sở hữu trí tuệ trong trường hợp nhằm bảo đảm an ninh quốc phòng, dân sinh và lợi ích của Nhà nước, xã hội theo quy định tại Luật sở hữu trí tuệ mà Nhà nước quyết định chủ sở hữu trí tuệ phải chuyển giao quyền của mình cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khác sử dụng trong thời gian nhất định thì trong khoảng thời gian đó, quyền sở hữu trí tuệ này thuộc tài sản nhóm 3 kể trên.
Ngoài những tài sản nêu trên, thì tài sản đang bị cầm cố, thế chấp mà giá trị bằng hoặc thấp hơn nghĩa vụ được bảo đảm thì không được kê biên.
Biện pháp cưỡng chế kê biên và xử lý tài sản được áp dụng rộng rãi trên địa bàn thành phố Hà Nội. Với mỗi loại tài sản, Chấp hành viên phải áp dụng các quy định khác nhau để thực hiện việc kê biên. Trong các loại tài sản, kê biên và xử lý tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất là phức tạp và thường kéo dài nhất. Sau khi Luật thi hành án dân sự có hiệu lực, số vụ việc kinh tế thường phải áp dụng biện này ngày càng nhiều. Phổ biến nhất là các vụ việc kê biên và xử lý quyền sử dụng đất của người phải thi hành án để thu nợ cho tổ chức tín dụng, ngân hàng.
Tình huống: Phân tích trường hợp cụ thể: Theo bản án số 85/2009/KDTM-ST ngày 05/5/2009 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và đơn yêu cầu thi hành án của Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Á, Trưởng thi hành án dân sự TP Hà Nội đã ban hành quyết định thi hành án số 1224/QĐTHA.KT ngày 21/8/2009 cho thi hành khoản:
“Buộc Công ty LH phải Thanh toán trả Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Á tổng số tiền: 1.690.528.456đ (Một tỷ sáu trăm chín mươi triệu, năm trăm hai tám nghìn, bốn trăm năm sáu đồng);
Kể từ ngày bên được Thi hành án có đơn yêu cầu Thi hành án, bên phải Thi hành án còn phải chịu lãi của số tiền phải Thi hành án theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa Thi hành án.
Xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng 245m2 đất ở thuộc thửa đất số 09, tờ bản đồ số 09, tọa lạc tại xã Duyên Hà, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội (theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ 861457 do Ủy ban nhân dân huyện Thanh Trì cấp ngày 30/7/2004 cho ông Trần Đăng Q”
Thực tế xử lý: Sau khi chấp hành viên ấn định thời gian tự nguyện và thực hiện việc tống đạt hợp lệ quyết định thi hành án và giấy báo tự nguyện cho Ngân hàng TMCP Việt Á, bên bảo lãnh là ông Trần Đăng Q. Riêng Công ty LH do không còn hoạt động tại địa chỉ theo quyết định của Tòa án, nên Chấp hành viên phải tiến hành niêm yết Quyết định thi hành án theo quy định tại Điều 42 Luật thi hành án dân sự. Chấp hành viên tiến hành xác minh tại địa chỉ của Công ty theo bản án thì trụ sở Công ty LH là đi thuê, Công ty đã chuyển đi, không để lại địa chỉ mới, tại đó không có bất kỳ tài sản nào của Công ty.
Chấp hành viên phải tiến hành xác minh tình trạng hoạt động công ty tại Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch đầu tư thành phố Hà Nội. Phòng Đăng ký kinh doanh trả lời bằng văn bản là Công ty LH hiện vẫn đang hoạt động theo đúng nội dung đăng ký kinh (tức là vẫn hoạt động tại địa chỉ theo quyết định của Tòa án).
Chấp hành viên phải có công văn đề nghị cơ quan Thuế đang quản lý Công ty LH là Chi cục thuế quận Đống Đa, thành phố Hà Nội cho biết tình trạng hoạt động của công ty LH và địa chỉ trụ sở mới nếu có. Sau đó, tại văn bản phúc đáp của cơ quan thuế cho biết: Công ty LH đã không nộp tờ khai thuế hàng tháng theo quy định đã 05 tháng và thuộc diện không còn kinh doanh tại địa chỉ đã đăng ký. Đồng thời với việc xác minh tài sản của Công ty LH, chấp hành viên ra Thông báo ấn định thời gian 15 ngày kể từ ngày có thông báo, gia đình người bảo lãnh biết nếu không cung cấp được thông tin về tài sản của Công ty LH hoặc tự nguyện thực hiện trách nhiệm trả nợ của người bảo lãnh thì Chấp hành viên sẽ kê biên quyền sử dụng đất của gia đình và phát mại để thi hành quyết định của Tòa án.
Sau nhiều lần giáo dục, thuyết phục và phía người được thi hành án xin gia hạn thời gian để gia đình người bảo lãnh tự thực hiện nghĩa vụ nhưng không có kết quả. Chấp hành viên ra quyết định kê biên toàn bộ quyền sử dụng đất đối với 245m2 nêu trên cùng toàn bộ các công trình có trên đất theo quy định tại Điều 110, Điều 111 Luật Thi hành án dân sự. Đồng thời ra thông báo cho đương sự được biết về quyền được thỏa thuận giá, hoặc thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày kê biên theo quy định tại Khoản 1 Điều 98 Luật thi hành án dân sự.
Do đương sự không có văn bản, biên bản nào về việc thỏa thuận tài sản kê biên hoặc lựa chọn tổ chức thẩm định giá, nên Chấp hành viên đã tiến hành ký kết hợp đồng thẩm định giá với doanh nghiệp có chức năng thẩm định giá theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 98 Luật thi hành án dân sự. Sau khi có kết quả thẩm định giá,
Chấp hành viên đã ra thông báo về kết quả thẩm định và quyền của đương sự thỏa thuận lựa chọn tổ chức bán đấu giá theo quy định tại khoản 2 Điều 101 Luật thi hành án dân sự. Do không có thỏa thuận nào, Chấp viên tiến hành ký kết hợp đồng bán đấu giá với tổ chức bán đấu giá do Chấp hành viên lựa chọn.
Đến trước ngày tổ chức bán đấu giá một ngày, Công ty bán đấu giá tài sản có công văn thông báo việc tổ chức phiên đấu giá không thành do không có người đăng ký mua tài sản.
Chấp hành viên căn cứ Điều 104 Luật thi hành án dân sự, ra quyết định hạ giá tài sản 10% và ký kết phụ lục với công ty bán đấu giá để tiếp tục bản đấu giá. Công ty bán đấu giá thực hiện lại các thủ tục bán đấu giá theo đúng quy định tại Nghị định 62/2017/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật đấu giá tài sản.
Tại phiên đấu giá lần này, tài sản đã bán được. Sau đó 02 ngày, khi người mua được tài sản nộp đủ tiền mua tài sản, Công ty bán đấu giá có văn bản thông báo kết quả bán đấu giá và đề nghị cơ quan thi hành án thực hiện việc giao tài sản đã bán đấu giá thành.
Chấp hành viên ra Thông báo thi hành án ấn định trong thời hạn là 15 ngày, gia đình ông Q phải tự nguyện chuyển dọn toàn bộ tài sản và người ra khỏi diện tích 245m2 đất nêu trên để cơ quan thi hành án dân sự giao tài sản cho người trúng đấu giá. Hết thời hạn trên, gia đình ông Q không tự nguyện, Chấp hành viên phải tiến hành lập kế hoạch cưỡng chế theo quy định tại Điều 72 Luật thi hành án dân sự và tổ chức họp trù bị cưỡng chế.
Trên cơ sở sự thống nhất của chính quyền địa phương, Viện kiểm sát nhân dân và công an thành phố Hà Nội, công an huyện Thành Trì, Chấp hành viên ban hành quyết định cưỡng chế giao quyền sử dụng đất và tài sản theo quy định tại Điều 115; Điều 117 của Luật thi hành án dân sự.
Việc tổ chức cưỡng chế đã không diễn ra do gia đình ông Q tự nguyện giao nhà đất cho người trúng đấu giá trước ngày tổ chức cưỡng chế.
Cuối cùng, Chấp hành viên tiến hành việc chi trả tiền cho người được thi hành án sau khi đã trừ chi phí kê biên tài sản, phí thẩm định giá, phí bán đấu giá theo quy định tại Điều 47; Điều 73 Luật thi hành án dân sự.
Nhận xét: Đây là vụ việc xử lý tài sản của người bảo lãnh để thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho người phải thi hành án là công ty LH. Điều này dẫn tới giá được định cho tài sản đã kê biên (đặc biệt là nhà đất) để làm giá khởi điểm bán đấu giá không sát với giá thị trường nên dẫn đến việc người mua cố ý dìm giá để mua được giá rẻ gây thiệt hại cho các đương sự hoặc giá khởi điểm quá cao so với giá thị trường nên không có người đăng ký mua, dẫn tới phải giảm giá tài sản đã kê biên và thực hiện lại thủ tục bán đấu giá. Việc này sẽ làm vụ việc bị kéo dài. Tại vụ việc nêu trên, tại thời điểm ra quyết định thi hành án thì tổng giá trị tài sản chỉ vào khoảng 1,5 tỷ đồng, đến khi bán đấu giá khoảng 2,2 tỷ, khi giao xong tài sản địa phương cho biết giá vào khoảng 3,5 tỷ. Việc này thường sẽ gây ra bức xúc cho người bị xử lý tài vì tiếc của và dẫn đến việc chống đối lại lực lượng cưỡng chế khi cưỡng chế giao tài sản.
Kết luận: Thông qua một số thảo luận về biện pháp cưỡng chế phổ biến buộc thi hành nghĩa vụ trả tiền theo quy định pháp luật và vụ việc nổi bật trên địa bàn Hà Nội trong thực tiễn, Naci Law mong muốn đưa đến bạn đọc một góc nhìn đối với thực hiện nghĩa vụ trả tiền khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ. Để được tư vấn chi tiết về việc buộc hoàn thành nghĩa vụ trả tiền và các thủ tục pháp lý khác, Qúy Khách hàng vui lòng liên hệ NaciLaw để được hỗ trợ.
NACILAW,
Trần Thị Trinh
(Legal Consultant)